Lúc này việc điều trị chủ yếu là điều trị biến chứng và điều trị hậu quả do loãng xương gây ra, việc điều trị cũng chỉ góp phần làm giảm sự phát triển của bệnh.

Việc hiểu biết về bệnh loãng xương từ đó có các biện pháp dự phòng loãng xương là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó phát hiện và điều trị sớm cũng có tác dụng làm giảm biến chứng của loãng xương.

Loãng xương thực chất chính là hậu quả của sự rối loạn trong cân bằng tạo và hủy xương, trong đó quá trình hủy xương chiếm ưu thế. Hậu quả nặng nhất của loãng xương là gãy xương. Tuổi thọ trung bình càng cao, số người mắc bệnh ngày càng nhiều.

QUÁ TRÌNH MẤT XƯƠNG

Khối lượng xương cao nhất (khối lượng xương đỉnh) đạt được vào cuối thời kỳ phát triển của cơ thể, thường ở tuổi 25 - 30.

Từ 35 - 40 tuổi sự mất xương sinh lý bắt đầu xảy ra, mật độ xương giảm khoảng 0,1% - 0,5% mỗi năm. Giai đoạn này gọi là thời kỳ mất xương chậm.

Ở phụ nữ tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh, sự mất xương tăng lên 1 – 3% mỗi năm và kéo dài 5 - 10 năm sau khi ngừng hoạt động kinh nguyệt. Giai đoạn này gọi là thời kỳ mất xương nhanh.

Đến ngoài 70 tuổi do thiếu canxi và vitamin D hậu quả tăng hủy xương và giảm tái tạo xương dẫn đến thiểu năng xương (đặc biệt xương đặc) làm tăng nguy cơ loãng xương. Tuổi này loãng xương gặp cả ở nam và nữ.

LOÃNG XƯƠNG

Theo Tổ chức Y tế Thế giới 1993, loãng xương là một bệnh lý của xương, được đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương kèm theo hư biến cấu trúc của xương, dẫn đến tăng tính dễ gãy của xương, tức là có nguy cơ gãy xương. Cần đo mật độ xương để đánh giá nguy cơ gãy xương.

 
Loãng xương nguyên phát

Là loại loãng xương không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài tuổi tác và/ hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ. Nguyên nhân do quá trình lão hóa của tạo cốt bào, làm xuất hiện tình trạng mất cân bằng giữa hủy xương và tạo xương, gây nên thiểu sản xương. Loãng xương nguyên phát được chia làm hai týp.

Týp 1: loãng xương sau mãn kinh, thường gặp ở nữ khoảng từ 50 – 60 tuổi, đã mãn kinh.

Týp 2: loãng xương ở tuổi già, liên quan đến tuổi với sự mất cân bằng giữa tạo và hủy xương. Týp này gặp ở cả nam và nữ ở độ tuổi trên 70.

Loãng xương thứ phát

Loãng xương là hậu quả của một số bệnh hoặc một số thuốc gây nên. Thường gặp trong các bệnh suy sinh dục, cường vỏ thượng thận, dùng nội tiết tố vỏ thượng thận kéo dài, cường cận giáp, cường giáp, rối loạn hấp thu, thiếu canxi, bất động kéo dài, điều trị bằng thuốc chống đông heparin kéo dài.

TRIỆU CHỨNG CỦA LOÃNG XƯƠNG

Hầu hết các tác giả khẳng định rằng tình trạng loãng xương thường tiến triển thầm lặng, những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi mật độ xương giảm trên 30%. Trong nhiều trường hợp, biểu hiện đầu tiên của loãng xương lại là gãy xương.

Các triệu chứng đầu tiên có thể là biểu hiện biến chứng của loãng xương:
- Hội chứng kích thích rễ thần kinh: có thể đau dọc theo dây thần kinh liên sườn, thần kinh tọa,… nhưng không bao giờ gây hội chứng ép tủy.
- Xẹp đốt sống, đau lưng, đau thắt lưng
- Rối loạn tư thế cột sống: gù lưng, cong đoạn cột sống lưng, thắt lưng.
- Gãy xương: các vị trí thường gặp là đầu trên xương đùi, đầu trên xương cánh tay, đầu dưới xương cẳng tay, xương sườn, xương chậu và xương cùng.

HẬU QUẢ CỦA LOÃNG XƯƠNG


 
Gãy xương khi bị những chấn thương nhẹ là hậu quả cuối cùng của bệnh loãng xương. Gãy xương do loãng xương thường gặp ở các vị trí chịu lực của cơ thể như cột sống, thắt lưng và cổ xương đùi.

Với người có tuổi, thường có nhiều bệnh lý của tuổi tác đi kèm như tim mạch, huyết áp, tiểu đường... và đặc biệt với tình trạng loãng xương nặng (thiếu chất khoáng và protein của xương) thì việc liền xương thường rất khó khăn, đa số người bệnh phải nằm tại chỗ nhiều ngày, thậm chí phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện.
Việc nằm tại chỗ dài ngày khi gãy xương không những làm tình trạng loãng xương càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất lợi cho sức khỏe người có tuổi như bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu, loét mục ở các điểm tỳ đè... Đây cũng là một nguyên nhân chính gây tàn phế và giảm tuổi thọ cho người có.

Ngoài ra, loãng xương cũng có thể dẫn đến gù lưng, còng lưng, giảm chiều cao, gây khó khăn trong sinh hoạt và làm việc.

ĐIỀU TRỊ LOÃNG XƯƠNG

Bệnh loãng xương có thể được cải thiện nhờ một chế độ ăn uống sinh hoạt và sử dụng thuốc hợp lý.

Chế độ ăn uống, sinh hoạt
Cần duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ, đa dạng, hợp lý phù hợp với nhu cầu của cơ thể trong từng giai đoạn, từng lứa tuổi, từng thói quen sinh hoạt.

Theo các nghiên cứu gần đây, chế độ ăn của dân ta nói chung rất thiếu canxi. Sữa và các sản phẩm từ sữa (bơ, phô mai..) giàu canxi chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong khẩu phần ăn của đa số dân ta và con số ít ỏi này cũng chỉ tập trung ở một số thành phố lớn.

Ở người có tuổi cần đặc biệt quan tâm đến các thành phần khoáng chất (nhất là canxi) và protid trong khẩu phần ăn vì ở người có tuổi khả năng ăn uống và hấp thu các chất dinh dưỡng và khoáng chất đều bị hạn chế. Chính vì vậy sữa là một loại thức ăn lý tưởng để cung cấp cả canxi và protid cho người có tuổi. Lượng sữa cần thiết mỗi ngày từ 500 đến 1.000ml (có thể là sữa tươi, sữa chua hoặc sữa pha từ sữa bột).

Cần duy trì một chế độ sinh hoạt đa dạng, năng động: vận động thể lực đều đặn, vừa sức, tăng cường các hoạt động thể lực ở ngoài trời. Việc vận động thường xuyên vừa có ích cho toàn cơ thể (hệ tim mạch, hệ hô hấp, hệ thống tiêu hóa...) vừa tác dụng tốt trực tiếp cho hệ thống xương cơ khớp, chống thoái hóa và chống loãng xương (do tăng cường hoạt động của tế bào sinh xương, tăng cường hấp thu canxi và protid).

Đối với người lớn tuổi cần hết sức tránh bị té ngã vì khi xương đã bị loãng, gãy xương sẽ rất dễ xảy ra, khi gãy lại rất khó liền. Việc bất động để điều trị gãy xương không những làm cho loãng xương nặng thêm mà còn là nguy cơ của nhiều bệnh lý do nằm lâu khác.

Chế độ dùng thuốc
Thuốc giảm đau chỉ dùng khi cần thiết, tùy mức độ có thể dùng các thuốc giảm đau đơn thuần (Paracetamol,...), hay dùng Calcitonine thuốc vừa có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương vừa có tác dụng giảm đau do hiện tượng loãng xương. Hạn chế dùng các thuốc kháng viêm giảm đau đặc biệt nhóm thuốc kháng viêm chứa Corticosteroides.

Cung cấp canxi theo nhu cầu của cơ thể ở từng lứa tuổi, từng trạng thái cơ thể... để bổ sung cho những thiếu hụt mà khẩu phần ăn hàng ngày chưa đáp ứng đủ (Ở người có tuổi, nhu cầu về canxi tăng mà khả năng hấp thu canxi ở ruột lại bị giảm sút, ở phụ nữ có thai, cho con bú, sau mãn kinh... nhu cầu canxi đều tăng...).

Trong mọi phác đồ, luôn phải cung cấp đủ canxi, trung bình 1.000mg mỗi ngày. Nếu chế độ ăn không đủ, cần cung cấp canxi dưới dạng thuốc. Người nhiều tuổi nên uống kết hợp canxi 1.000mg và vitamin D3 800UI hàng ngày. Cung cấp vitamin D hoặc chất chuyển hóa của vitamin D (Canxitriol - Rocaltrol) để tăng cường khả năng hấp thu và sử dụng canxi của cơ thể.

Cung cấp Vitamin K2, trong đó Menaquinon 7 (1 loại Vitamin K2 trong tự nhiên có nguồn gốc từ Natto – chất lên men từ đậu nành, được người Nhật Bản sử dụng như thực phẩm) giúp “đặt” Canxi vào đúng chỗ cần và “kéo” Canxi ra khỏi chỗ không cần (thậm chí chỗ nguy hiểm). Chỗ cần là xương và máu, chỗ không cần là vôi hóa thành mạch, vôi hóa các mô mềm.
Dùng các thuốc để ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương, liệu pháp hormon thay thế (hormon sinh dục nữ cho phụ nữ sau mãn kinh), Canxitonine... theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. Tốt nhất nên dùng Estrogen thảo dược như EstroG-100 để luôn an toàn, hiệu quả, không cần tới sự kê đơn của bác sĩ  thay cho liệu pháp hormon thay thế.

Để có kết quả, việc điều trị loãng xương cần toàn diện, liên tục và lâu dài. Thời gian điều trị bệnh loãng xương phải được tính bằng năm chứ không tính được bằng tháng (để đánh giá kết quả điều trị, thường phải sau 2 năm) nên chi phí thường quá cao so với mức sống hiện nay của đa số nhân dân lao động. Chính vì vậy việc phòng ngừa bệnh có ý nghĩa rất lớn, cả về mặt hiệu quả và kinh tế.

 
Ths.Bs Vũ Văn Lực

Loãng xương