Tóm tắt nội dung
Bạch biến có thể gặp mọi lứa tuổi và mọi giới, nhưng thường gặp nhất là khoảng từ 10 – 30 tuổi. Trong đó hơn 50% là xảy ra trước 20 tuổi và có thể gặp bệnh bạch biến cả ở trẻ em. Bệnh phân bố nhiều ở các nước vùng nhiệt đới và ở những chủng người da màu. Mặc dù có tính chất gia đình rõ với khoảng 30% các trường hợp, nhưng chưa có nghiên cứu nào khẳng định chắc chắn là bệnh có tính di truyền.
Bệnh ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống và tâm lý của người bệnh, đặc biệt ở sự phức tạp của nguyên nhân cũng như những khó khăn trong điều trị và đặc biệt là yếu tố thẩm mỹ.
Là bệnh lành tính, không ảnh hưởng gì đến sức khỏe, không lây sang người khác và phần lớn các trường hợp đều khỏe mạnh, nhưng có thể kết hợp với các bệnh lý tự miễn khác như bệnh tuyến giáp, tiểu đường, thiếu máu, thiểu sản tủy. Do đó, ngoài khía cạnh thẩm mỹ, cần quan tâm chú ý đến các bệnh lý đi kèm.
1. Nguyên nhân gây bạch biến
Cho đến nay nguyên nhân gây bệnh bạch biến còn chưa được biết rõ, nhưng có một điều chắc chắn là bệnh xuất hiện là do sự giảm số lượng và chất lượng của các tế bào sắc tố da ở vùng da bị bệnh.
Một vài giả thuyết cho rằng bệnh bạch biến có thể do yếu tố tự miễn hoặc do di truyền, liên quan đến đột biến ở gen DR4, B13 hoặc BW35 của kháng nguyên phù hợp tổ chức HLA. Các tự kháng thể coi các tế bào sắc tố như là các kháng nguyên và chống lại chúng, rồi phá hủy, làm giảm sản xuất sắc tố melanin gây ra bệnh bạch biến.
Khoảng 20 - 30% người bị bệnh bạch biến có tự kháng thể chống lại tế bào của tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục, gan, tụy nên một số người bị bệnh bạch biến có các bệnh lý kèm theo liên quan đến các cơ quan nêu trên.
2. Biểu hiện triệu chứng bệnh bạch biến
Biểu hiện đặc trưng là những dát hay mảng trắng, ranh giới rõ, mất sắc tố da so với những vùng da xung quanh do các tế bào sắc tố da ở đó đã không còn hoặc đã ngưng hoạt động
Vị trí thường xuất hiện của các mảng bạch biến là những vùng hở, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như tay, chân, mặt, môi…
Tế bào da trên mảng bạch biến vẫn bình thường, không bị teo, không đóng vảy, không đau, không ngứa, không tê dại, cảm giác trên da không biến đổi. Có điều các sợi lông trên đám bạch biến cũng bị trắng theo.
Tùy theo thể bạch biến mà các mảng da bị đổi màu xuất hiện khác nhau:
- Thể bạch biến toàn thân: Là thể bệnh phổ biến nhất, các mảng bạch biến thường xuất hiện ở nhiều vùng trên cơ thể và có tính chất đối xứng
- Thể bạch biến phân đoạn: Thường biểu hiện chỉ một bên hoặc một vùng trên cơ thể, có xu hướng xuất hiện ở những người trẻ tuổi hơn, tiến triển trong vòng 1 đến 2 năm
- Thể bạch biến khu trú: Xảy ra ở một vài vị trí trên cơ thể
3. Tiến triển và tiên lượng
- Rất khó để dự đoán được tiến triển của bệnh, trong hầu hết các trường hợp các mảng da mất sắc tố sẽ lan rộng ra. Trong khi một số ít lại tự khu trú mà không cần điều trị.
- Bệnh diễn biến mạn tính, có những đợt nặng lên rồi lại giảm đi, thường nặng lên vào mùa hè, giảm đi vào mùa đông.
- Người càng trẻ, tiên lượng càng tốt với thời gian bị bệnh càng ngắn và có nhiều hy vọng khỏi bệnh hơn. Ngược lại, càng lớn tuổi, thời gian mắc bệnh càng kéo dài, kết quả đáp ứng điều trị càng kém đi.
4. Chẩn đoán bệnh bạch biến
Phần lớn trường hợp bạch biến được chẩn đoán chỉ dựa vào thăm khám lân sàng, với các biểu hiện đặc trưng như:
- Xuất hiện những mảng mầu trắng trên da ở những vị trí hở, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời
- Mảng da trắng có ranh giới rõ với vùng da bình thường, các tế bào da ở mảng trắng vẫn hoàn toàn bình thường
- Trường hợp nghi ngờ hoặc cần chẩn đoán phân biệt hay với một số bệnh ngoài da khác, bác sĩ phải khai thác kỹ thêm về quá trình diễn biến bệnh, về tiền sử bệnh của bản thân, tiền sử gia đình.
- Ngoài ra, để khám kỹ bác sĩ có thể dùng đèn chiếu UV để khám da, sinh thiết da ở vùng tổn thương để xét nghiệm giải phẫu bệnh, xét nghiệm máu để chẩn đoán các bệnh lý rối loạn chuyển hóa hay bệnh tự miễn như bệnh tiểu đường, bệnh suy giáp…
5. Điều trị bệnh bạch biến
Nguyên nhân chính xác gây bệnh cho đến nay chưa được biết rõ nên chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh bạch biến. Hiện nay điều trị bệnh còn khó khăn, việc điều trị chỉ mới dừng lại ở giải quyết các triệu chứng.
- Dùng thuốc nhóm methoxsalene: Như meladinine có tác dụng tăng nhạy cảm da với tác động của tia cực tím, kết hợp với chiếu tia UV bước sóng ngắn hoặc dài tại vùng da tổn thương. Các tác dụng phụ của nhóm thuốc này có thể gây chán ăn, tăng men gan, vàng da.
- Bôi tại chỗ corticosteroid: Được lựa chọn để phối hợp với các liệu pháp trị liệu khác như laser CO2, chiếu tia UVB phổ hẹp, dẫn xuất vitamin D3… đem lại hiệu quả điều trị tốt hơn, nhất là những trường hợp bạch biến khu trú. Cùng với tác dụng chống viêm, nhóm thuốc này còn có tác dụng ức chế miễn dịch bằng cách tác động làm giảm số lượng các cytokine. Chính vì vậy thuốc làm giảm hoạt động của tự kháng thể gây rối loạn sắc tố.
- Thuốc uống chống nắng: Ở người bị bạch biến, chất lượng cũng như số lượng của tế bào sắc tố giảm sút nên khả năng bảo vệ cơ thể trước tác hại của ánh nắng mặt trời cũng giảm sút theo. Ngoài việc sử dụng các thuốc chống nắng dạng bôi ngoài da, người bệnh nên kết hợp cả dạng thuốc uống chống nắng để tránh sự cháy nắng ở những vùng da giảm sắc tố. Việc chống nắng còn giúp làm giảm sự tương phản màu sắc giữa vùng da lành và da bệnh, tránh mất thẩm mỹ, cũng như tránh làm tổn thương da.
- Tư vấn tâm lý: Bạch biến gây ra nhiều tác động đến tâm lý của người bệnh, làm giảm chất lượng cuộc sống. Một số vấn đề phải đối mặt bao gồm bất thường về tâm lý, khó khăn về tình dục, băn khoăn, lo lắng và phối hợp các vấn đề trên. Do đó, vai trò của việc tư vấn tâm lý trong điều trị bạch biến là vô cùng quan trọng, cần nhấn mạnh để người bệnh hiểu rõ bệnh chỉ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ ít nguy hiểm đến tính mạng.
- Cấy tế bào sắc tố da: Đây là phương pháp mới trong điều trị bạch biến nhưng đòi hỏi chi phí và kỹ thuật cao nên không được áp dụng rộng rãi.
Tóm lại bạch biến là một bệnh ngoài da lành tính, có thể gặp ở mọi lứa tuổi với tỷ lệ đồng đều ở cả hai giới. Việc điều trị bệnh là một quá trình lâu dài cần sự phối hợp kiên trì giữa người bệnh và bác sĩ. Người bệnh cần giữ vững tâm lý, tránh buồn rầu lo lắng làm bệnh diễn biến nặng hơn.
Bạch biến