Tóm tắt nội dung
Bệnh cúm gây ảnh hưởng đến đường hô hấp trên và dưới, thường diễn biến tự khỏi, song có thể gây nhiều biến chứng nặng hay gặp, nguy hiểm nhất là viêm phổi do vi khuẩn và suy đa tạng. Cần phân biệt với bệnh cảm thông thường hay còn gọi là cảm lạnh, cũng do virut gây ra nhưng không phải là virut cúm.
Bệnh cảnh lâm sàng xuất hiện đột ngột với các triệu chứng toàn thân như đau đầu, sốt, gai rét, đau cơ đi kèm với các biểu hiện viêm, long đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng thay đổi từ nhẹ giống cảm thông thường đến hội chứng nặng với biểu hiện suy hô hấp nặng và suy đa tạng nhất là nhiễm cúm A H5N1 (cúm gây bệnh ở gia cầm rồi lây sang người, còn gọi là cúm gà H5N1).
Tổn thương phổi thường gặp trong nhiễm cúm A H5N1 là thâm nhiễm lan toả, thâm nhiễm kẽ phổi. Điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng, tuy nhiên những trường hợp nặng cần hỗ trợ hô hấp (thở oxy, thở máy), điều trị kháng sinh là cần thiết trong những trường hợp bội nhiễm phổi do vi khuẩn. Điều trị thuốc kháng virut có thể được áp dụng tuy nhiên hiệu quả chưa được đánh giá. Biện pháp phòng bệnh được áp dụng là tiêm phòng vacxin nhưng virut cúm đặc biệt cúm A dễ biến đổi nên việc nghiên cứu vacxin rất hạn chế.
1. Nguyên nhân gây bệnh cúm
Nguyên nhân gây bệnh là do virut cúm gây ra. Virut cúm tên khoa học là Influenza thuộc họ Orthomyxoviridae, gồm 3 typ A, B và C (còn gọi là cúm A, cúm B và cúm C). Virut cúm rất dễ biến dị nhất là virut cúm A, do biến dị nên virut cúm gồm nhiều phân typ (subtype). Mỗi lần virut biến dị kháng nguyên cũng bị biến đổi, do đó gây khó khăn trong việc sản xuất vacxin phòng bệnh cúm.
Virut cúm A được chia thành nhiều phân typ dựa trên kháng nguyên bề mặt ngưng kết hồng cầu Hemagglutinin (H) và neuraminidase (N). Có 16 loại kháng nguyên H (từ H1 đến H16) và 9 kháng nguyên N (từ N1 đến N9), nghĩa là có tất cả 144 tập hợp các loại virut cúm A.
Các chủng virut cúm gây bệnh thường gặp là cúm A H1N1 gây ra đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, cúm A H2N2 gây đại dịch năm 1957, cúm A H3N2 gây đại dịch năm 1968 và vẫn còn lây lan lẻ tẻ cho đến ngày nay, cúm gia cầm H5N1 được ghi nhận lây sang người từ năm 1997 và hiện vẫn gây bệnh lẻ tẻ ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
2. Dịch tễ học virut cúm
Bệnh cúm lây lan theo mùa, các vụ dịch cúm gần như được ghi nhận hàng năm, mặc dù mức độ lan rộng và độ nguy hiểm của chúng thay đổi. Những vụ dịch lan rộng và nghiêm trọng đều do virut cúm A gây ra. Các vụ dịch cúm xuất hiện hầu hết vào tháng mùa đông ở những vùng ôn đới bắc và nam bán cầu.
Một yếu tố chủ yếu quyết định sự lan rộng và mức độ trầm trọng của vụ dịch là mức độ miễn dịch của quần thể dân chúng có nguy cơ. Khi một dạng kháng nguyên virut mới xuất hiện mà kháng thể kháng nó có ít hoặc không có trong cộng đồng thì các đợt bùng phát có thể xảy ra. Những đợt dịch như vậy có thể tiếp tục trong một thời gian cho đến khi miễn dịch trong cộng đồng đạt đến mức cao.
Các nhà khoa học lo ngại virut cúm A H5N1 có thể tiến hoá thành dạng dễ lây từ người sang người làm lây bệnh nhanh chóng và là bệnh nguy hiểm chết người. Điều này có thể xảy ra khi 1 người nhiễm virut gây bệnh cúm thông thường sau đó lại nhiễm virut cúm gia cầm H5N1, 2 virut này tái tổ hợp trong cơ thể tạo ra chủng virut dễ lây lan thành dịch.
Virut cúm B gây những đợt bùng phát nói chung ít lan rộng và ít trầm trọng hơn so với nhiễm virut cúm A. Ngưng kết tố hồng cầu (H) và neuraminidase của virut cúm B ít biến đổi. Những đợt dịch cúm B thường xuất hiện ở những nơi đông người như trường học, đơn vị quân đội, nhà trẻ....
Đường lây nhiễm của virut cúm
Virut cúm chủ yếu lây do các giọt bắn, giọt nhỏ từ đường hô hấp của bệnh sang người lành. Các giọt bắn có kích thước lớn từ 5 – 100mcm có thể bắn trực tiếp từ người bệnh sang người lành khi đứng gần, nhưng cũng có thể các giọt bắn rơi xuống mặt phẳng (như mặt bàn, bề mặt dụng cụ, sàn nhà) hay bám vào các vị trí tay cầm (tay nắm cửa, dụng cụ cầm tay) rồi từ đó gián tiếp lây sang người lành và gây bệnh.
Một số giả thuyết cho rằng, virut cúm còn có thể lây qua đường không khí, tức là các giọt bắn có kích thước siêu nhỏ (dưới 5mcm) bắn ra từ người bệnh rồi bay trong không khí, hoặc lơ lửng trong không khí, rồi lây sang người lành do hít phải. Tuy nhiên các bằng chứng cũng chưa thật rõ ràng. Có điều, khi thực hiện các thủ thuật tạo ra khí dung (như khí dung điều trị, đặt nội khí quản, thở máy…) thì virut cúm có thể bắn ra theo các giọt khí dung và lây trong không khí.
Với virut cúm A H5N1, hiện đường lây truyền vẫn chưa xác định được rõ ràng. Có các bằng chứng phù hợp lây từ gia cầm hay từ môi trường sang người, như gặp ở người chăn nuôi hoặc giết mổ gia cầm. Trong khi chưa có đủ cơ sở để khẳng định có sự lây truyền cúm A H5N1 từ người sang người, đường lây truyền này đang được nghiên cứu.
Các vụ đại dịch cúm trên thế giới
Đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918:
Đại dịch cúm năm 1918 do virut cúm A H1N1 gây ra, lần đầu được phát hiện ở Châu u, Châu Mỹ và một số khu vực Châu Á trước khi lan ra hầu hết mọi nơi trên thế giới chỉ trong vòng vài tháng. Vào thời điểm đó người ta không biết chính xác chủng cúm gây ra đại dịch đến từ đâu và nó cũng không chỉ diễn ra ở Tây Ban Nha. Nhưng nó được biết đến trên toàn thế giới với tên cúm Tây Ban Nha, vì là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong đại dịch này, ngay cả nhà vua của Tây Ban Nha lúc đó là Alfonso XIII cũng đã bị nhiễm.
Một điểm khác thường của đại dịch cúm 1918, đó là bệnh dịch đã tấn công vào nhiều người trẻ tuổi khỏe mạnh thời đó. Đây là nhóm đối tượng thường có thể tự chống lại được nhóm bệnh truyền nhiễm này. Thậm chí cả quân nhân trong thế chiến thứ nhất cũng bị mắc cúm 1918. Đã có nhiều binh lính Mỹ tử vong vì cúm hơn là chết trong chiến tranh.
Các nghiên cứu hiện đại từ thi thể của nạn nhân đông lạnh đã kết luận rằng, virut gây ra một cơn bão cytokine (phản ứng quá mức của hệ miễn dịch trong cơ thể). Các phản ứng miễn dịch mạnh mẽ của người trẻ khỏe gây tàn phá cơ thể, trong khi hệ miễn dịch yếu hơn của trẻ em và người cao tuổi khiến nhóm đối tượng này tử vong ít hơn.
Hậu quả của đại dịch là đã lây nhiễm cho khoảng 500 triệu người trên toàn thế giới (khoảng 1/3 dân số thế giới ở thời điểm đó) và khoảng 50 triệu người tử vong. Đại dịch đã gây thiệt hại nặng nề cho con người, nó khiến cho nhiều gia đình mất người thân, để lại vô số góa phụ và trẻ mồ côi. Các nhà tang lễ đã rơi vào tình trạng quá tải, các thi thể chất đống, nhiều người đã phải tự đào mộ cho chính các thành viên trong gia đình của họ.
Đại dịch cúm 1918 cũng gây thiệt hại to lớn đối với nền kinh tế trên thế giới. Tại Mỹ, có rất nhiều doanh nghiệp đã buộc phải đóng cửa vì có rất nhiều nhân viên của họ bị bệnh. Các dịch vụ cơ bản như gửi thư, thu gom rác thải đã bị cản trở do các công nhân bị cúm. Thậm chí ở một số nơi còn không có đủ công nhân để thu hoạch mùa màng ở các nông trại. Ngay cả các cơ sở y tế tiểu bang và địa phương cũng đóng cửa gây cản trở cho những nỗ lực ghi lại sự lây lan của dịch cúm năm 1918.
Đến mùa hè năm 1919 đại dịch mới chấm dứt do những người bị nhiễm bệnh đã tử vong hoặc đã tạo được miễn dịch cộng đồng với căn bệnh. Cho đến nay, đại dịch cúm Tây Ban Nha 1918 vẫn là một dịch bệnh nguy hiểm và để lại hậu quả tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại.
Đại dịch cúm 1957:
Còn gọi là đại dịch cúm Châu Á 1957, do virut cúm A H2N2 gây ra. Một số tác giả tin rằng, virut này hình thành do sự tái tổ hợp của cúm gia cầm (có thể là ngỗng) và virut cúm ở người. Vì đây là một chủng cúm mới, nên khả năng miễn dịch trong cộng đồng là rất thấp.
Báo cáo xác định các trường hợp đầu tiên xảy ra vào cuối năm 1956 hoặc tháng 2 năm 1957 ở Quý Châu, Trung Quốc. Sau đó dịch lan sang Singapore vào tháng 2 năm 1957, đến Hongkong vào tháng 4 và Mỹ vào tháng 6 năm 1957.
Đại dịch có thể đã lây nhiễm cho nhiều người hơn đại dịch cúm 1918, tuy nhiên việc nghiên cứu vacxin, công tác phòng dịch được cải thiện, chăm sóc sức khỏe tốt hơn cũng như phát minh ra thuốc kháng sinh đã góp phần ngăn chặn dịch lây lan và làm giảm tỷ lệ tử vong. Ước tính các trường hợp tử vong trên toàn thế giới do đại dịch này gây ra rất khác nhau, dao động từ 1 đến 4 triệu. Tuy nhiên, theo báo cáo của WHO thì khoảng 2 triệu tử vong.
Virus cúm A H2N2 tiếp tục lan truyền cho đến năm 1968, khi nó biến đổi qua sự dịch chuyển kháng nguyên thành phân typ H3N2, là nguyên nhân gây ra đại dịch cúm năm 1968.
Đại dịch cúm 1968:
Đại dịch cúm HongKong 1968 do virut cúm A H3N2 gây ra. Cũng giống như cúm A H2N2, virut cúm A H3N2 đều được cho rằng có sự tái tổ hợp gen giữa virut cúm gia cầm và virut cúm người, điều này làm cho virut có khả năng xâm nhiễm vào người và lây lan giữa người và người.
Số người chết được ước tính của đại dịch là 1 triệu người trên toàn thế giới và khoảng 100.000 người ở Mỹ. Hầu hết các trường hợp tử vong do virut cúm A H3N2 là ở những người từ 65 tuổi trở lên.
Virus cúm A H3N2 hiện vẫn lưu hành trên toàn thế giới dưới dạng virus cúm A theo mùa. Virus cúm A theo mùa có liên quan đến bệnh nặng ở người lớn tuổi, và trải qua sự trôi kháng nguyên thường xuyên.
Dịch cúm gà H5N1:
Cúm A H5N1 là virut có khả năng gây nhiễm cao ở gia cầm. Chủng virut này lần đầu tiên được ghi nhận xâm nhiễm trên người là vào năm 1997 tại HongKong. Chính nhóm virut cũng là tác nhân gây dịch cúm trên gia cầm ở HongKong thời điểm đó.
Đến nay, trên thế giới đã có hơn 600 người nhiễm virus H5N1 với tỷ lệ tử vong khoảng 60%. Quốc gia chịu tổn thất về người nặng nề nhất là Indonesia và Việt Nam. Đã có 10 quốc gia châu Á và châu u phát hiện thấy virut H5N1.
Tại Việt Nam từ tháng 12/2003 đã xuất hiện những đợt dịch cúm gia cầm ở 64 tỉnh trong cả nước, phải tiêu huỷ hàng trăm triệu con gia cầm. Dịch trên người xảy ra ở nhiều tỉnh thành phố, đến nay nước ta ghi nhận 124 trường hợp mắc bệnh và 62 người tử vong.
3. Biểu hiện lâm sàng bệnh cúm
Thông thường bệnh cúm thường nhẹ, hầu hết có thể tự phục hồi mà không cần điều trị gì. Bệnh đặc trưng do sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng toàn thân như đau đầu, sốt, gai rét, đau cơ đi kèm với các biểu hiện đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất rộng, thay đổi từ nhẹ, thoáng qua, giống cảm thông thường đến hội chứng nặng với biểu hiện của đường hô hấp nặng và suy đa tạng.
Nói chung các biểu hiện lâm sàng bệnh cúm tùy thuộc vào chủng cúm bị nhiễm. Một số biểu hiện lâm sàng một số chủng cúm thường gặp:
Cúm thông thường:
Biểu hiện thường nhẹ, hầu hết có thể tự phục hồi, tự khỏi trong vòng 7 ngày mà không cần điều trị gì.
Thời gian ủ bệnh 24 - 48 giờ, với biểu hiện khi khởi phát là sốt, gai rét, ớn lạnh, nhức đầu, đau mình, mệt mỏi nhiều và cảm giác như kiệt sức. Ho với cơn ngắn không có đờm.
Sau thời gian ngắn bệnh chuyển sang thời kỳ toàn phát với biểu hiện sốt cao 38 - 39°C, chán ăn, mệt mỏi, tiểu ít, đau đầu, đau mỏi người.
Các biểu hiện đường hô hấp bao giờ cũng xảy ra và xuất hiện ngay những ngày đầu với mức độ nặng nhẹ khác nhau:
- Biểu hiện viêm mũi họng như hắt hơi, chảy nước mũi, chảy nước mắt.
- Các triệu chứng viêm thanh khí phế quản: ho khan, khàn tiếng...
- Thăm khám người nhiễm cúm có thể không ghi nhận gì đặc biệt trong những trường hợp nhẹ. Trong những trường hợp nặng có thể thấy họng đỏ, hạch cổ, phổi có ít ran nổ....
Sốt thông thường kéo dài 2 - 5 ngày rồi giảm đột ngột, vã mồ hôi, tiểu nhiều, viêm họng giảm rồi biến mất. Sốt có thể giảm từ từ nhưng nếu sốt trở lại cần lưu ý biến chứng.
Thời kỳ hồi phục kéo dài với các triệu chứng mệt mỏi, biếng ăn, mất ngủ. Tuy nhiên cũng cần chú ý tới biến chứng như viêm phổi, viêm màng phổi, viêm tai xương chũm.... nhất là ở trẻ em và người trên 65 tuổi, phụ nữ mang thai, người mắc bệnh lý mạn tính (tim mạch, phổi mạn tính, bệnh máu, thần kinh…), người bị suy giảm miễn dịch…
Cúm A H5N1:
Virut cúm A H5N1 là loại virut gây bệnh chủ yếu ở gia cầm nên còn gọi là cúm gia cầm. Bệnh được ghi nhận lây sang người lần đầu tại HongKong năm 1997.
Mặc dù cũng có trường biểu hiện nhẹ, không triệu chứng gì, nhưng phần lớn những người nhiễm cúm gia cầm H5N1 là thể bệnh nặng, với các tổn thương phổi lan tỏa và suy đa tạng.
Thời gian ủ bệnh dài hơn thể cúm thông thường, thường ủ bệnh từ 2 – 4 ngày, thậm chí dao động từ 8 – 17 ngày. Các biểu hiện chủ yếu:
- Sốt cao trên 38°C, có thể gai rét hay rét run
- Biểu hiện toàn thân giống như cúm thông thường kèm theo các triệu chứng đường hô hấp dưới. Một số trường hợp có đau bụng, nôn, ỉa chảy phân nhiều nước không có nhầy máu.
- Triệu chứng đường hô hấp dưới xuất hiện sớm và thường gặp khi người bệnh đến viện: xuất hiện ho có đờm, khó thở tiến triển, thở nhanh, tím môi và đầu chi.
- Khó thở, xuất hiện khó thở phụ thuộc vào tổn thương phổi nhưng thông thường khoảng 5 - 7 ngày sau khi khởi phát bệnh. Khám lâm sàng có thể thấy ran nổ, ran ẩm và ran rít.
- Chụp X quang phổi: tổn thương phổi trên X quang thường xuất hiện vào ngày thứ 5 sau khi khởi phát bệnh (dao động từ 3 - 10 ngày). Thâm nhiễm lan toả, đa ổ hoặc kiểu đốm, thâm nhiễm kẽ, đông đặc tiểu thuỳ hoặc thuỳ. Ít có tràn dịch màng phổi, khi có tràn dịch màng phổi cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác hoặc bội nhiễm.
Tình trạng suy hô hấp liên quan đến hiện tượng thâm nhiễm lan toả 2 phổi và biểu hiện của hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS). Suy đa phủ tạng trong nhiễm cúm A H5N1 rất thường gặp với suy thận, suy gan, suy hô hấp.... Tỷ lệ tử vong của bệnh cao khoảng gần 60% các trường hợp bệnh được chẩn đoán. Bệnh nhân thường tử vong sau khi khởi phát bệnh 9 - 10 ngày và phần lớn liên quan đến ARDS và suy đa tạng.
4. Chẩn đoán bệnh cúm
Chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học rất khó chẩn đoán xác định nhiễm virut cúm, bởi vì bệnh cúm không có biểu hiện gì đặc hiệu, các triệu chứng rất giống nhau giữa các chủng và ngay cả các virut gây viêm đường hô hấp khác cũng có biểu hiện rất giống với bệnh cúm.
Các biểu hiện lâm sàng gợi ý như:
- Sốt, gai rét, chán ăn, đau đầu, đau mình, mệt mỏi nhiều và người như kiệt sức
- Biểu hiện viêm mũi họng như hắt hơi, chảy nước mũi, chảy nước mắt
- Các triệu chứng viêm thanh khí phế quản: ho khan, khàn tiếng...
Để chẩn đoán xác định nhiễm virut cúm cần dựa vào các xét nghiệm virut học như nuôi cấy virut, phát hiện acid nucleic (PCR, RT-PCR) hay huyết thanh chẩn đoán.
Xét nghiệm virut học:
- Phân lập virut từ dịch họng, dịch tỵ hầu, dịch phế quản hay đờm
- Phát hiện acid nucleic của virut trong những mẫu bệnh phẩm bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR), phiên mã ngược (RT-PCR).
- Định týp virut (A và B) có thể dùng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang hay HI.
- Các phương pháp huyết thanh học để chẩn đoán chủ yếu có ích trong nghiên cứu hồi cứu.
- Những xét nghiệm khác không giúp nhiều cho chẩn đoán nhiễm virut cúm nhưng đánh giá tiên lượng bệnh và giúp ích cho điều trị như xét nghiệm công thức máu thấy giảm bạch cầu, đặc biệt giảm tế bào lympho, giảm tiểu cầu mức độ nhẹ đến trung bình. Khi bạch cầu máu tăng có thể do nhiễm khuẩn thứ phát...
Chụp X quang phổi:
Với những bệnh nhiễm virut cúm thông thường ít có biểu hiện gì đặc biệt trên phim X quang. Nhưng với nhiễm cúm A H5N1 có thể phát hiện tổn thương thâm nhiễm lan tỏa, thâm nhiễm kẽ thậm chí đông đặc tiểu thùy phổi.
Ngoài ra, cũng cần làm xét nghiệm để chẩn đoán phân biệt với các bệnh hô cấp cấp tính do virut khác, hay vi khuẩn....
5. Điều trị bệnh cúm
Đối với các thể bệnh cúm thông thường, biểu hiện thường nhẹ, nhiều trường hợp tự khỏi mà không cần điều trị gì. Các biện pháp điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng, như điều trị sốt, ho, đau đầu, đau người. Nếu có dấu hiệu mất nước thì bù thêm nước và điện giải. Người bệnh cần được nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt, ăn thức ăn dễ tiêu và uống nhiều nước.
Riêng đối với trường hợp nhiễm cúm A H5N1 cần phải đặc biệt lưu ý, vì thể này thường rất nặng. Phần lớn người bệnh cần hỗ trợ hô hấp trong 48 giờ đầu nhập viện. Các thuốc kháng virut cũng được sử dụng, tuy nhiên hiệu quả của nó còn tranh cãi và đang được nghiên cứu.
Thuốc kháng virut, là thuốc ức chế enzyme tham gia vào quá trình giải phóng virut ra khỏi tế bào vật chủ. Thông dụng nhất là thuốc oseltamivir đường uống (Tamiflu) và zanamivir đường hít. Nên sử dụng thuốc sớm ngay sau khi nghi ngờ nhiễm cúm A H5N1 trong khi chờ kết quả xét nghiệm.
Thuốc kháng sinh được chỉ định trong giai đoạn chưa khẳng định xét nghiệm hoặc trường hợp có bội nhiễm phổi nhất là nhiễm trùng bệnh viện.
Hồ trợ hô hấp có vai trò quan trọng trong điều trị viêm phổi do cúm A H5N1. Tùy theo mức độ tổn thương phổi và tình trạng thiếu oxy mà có thể sử dụng thở oxy qua kính mũi, qua mặt nạ hay thông khí nhân tạo không xâm nhập hoặc xâm nhập.
Bên cạnh đó, cần phải hồi sức suy đa tạng, nâng cao thể trạng, bồi phụ nước và điện giải, điều trị triệu chứng khác và dinh dưỡng đầy đủ.
6. Phòng bệnh cúm
Biện pháp dự phòng cúm tốt nhất là sự dụng vacxin, nhưng do tính dễ biến dị của virut cúm nên chế tạo vacxin gặp nhiều khó khăn. Vacxin làm từ kháng nguyên của typ virut gây bệnh cúm năm nay rất khó bảo vệ được cơ thể đối với typ gây bệnh cúm năm sau.
Có hai cách khắc phục khó khăn trên trong nghiên cứu phát triển vacxin cúm: một là sản xuất vacxin cúm đa typ kháng nguyên, hai là căn cứ vào dự đoán dịch tễ học để dự đoán typ cúm mới sẽ xuất hiện trong năm tới để sản xuất vacxin phòng ngừa typ đó.
Tại Nhật Bản vacxin cúm được sản xuất theo cách thứ nhất. Kháng nguyên của các phân typ virut cúm gây bệnh trong 10 năm trở lại đã được sử dụng để làm vacxin hỗn hợp. Vacxin này chứng tỏ hiệu quả phòng bệnh tốt. Vacxin nên được dùng sớm vào mùa thu trước đượt bùng nổ bệnh cúm và phân lập lại hàng năm để duy trì miễn dịch chống lại những chủng virut cúm phổ biến nhất.
Hiện nay các vacxin cúm tái tổ hợp đang được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và sử dụng thực nghiệm trên động vật. Mặc dù hiện nay virut cúm A H5N1 chưa lây nhiễm được từ người sang người nhưng ngay từ bây giờ các nhà khoa học đang tập trung nghiên cứu một số loại vacxin khác nhau để dự trữ nhằm dập tắt đại dịch cúm nếu phát tán và lan truyền ở người.
Ngoài biện pháp sử dụng vacxin phòng bệnh cúm, chúng ta phải sử dụng các biện pháp khác nữa để dự phòng như:
- Nâng cao thể trạng, tăng sức đề kháng, điều trị các bệnh cấp và mạn tính (nếu có)
- Vệ sinh cá nhân, vệ sinh các bề mặt sạch sẽ, rửa tay thường xuyên bằng dung dịch rửa tay có tác dụng kháng khuẩn hoặc dung dịch rửa tay khô
- Nếu có biểu hiện nghi nhiễm cúm thì nên ở nhà, hạn chế tiếp xúc với người xung quanh, nhất là trẻ em và người cao tuổi, và nên đeo khẩu trang để phòng phát tán virut ra môi trường.
Đặc biệt trong nhiễm cúm A H5N1:
- Phải cách ly cả người bệnh đã được chẩn đoán xác định và người bệnh còn nghi ngờ
- Khử trùng và vệ sinh sạch môi trường xung quanh, nơi người bệnh từng đi qua
- Nhân viên y tế khám và chăm sóc người bệnh phải mang phương tiện bảo hộ phòng dịch, như mặc quần áo bảo hộ, đội mũ, đeo kính, đi găng, đeo khẩu trang N95…
- Với những trường hợp tiếp xúc với nguồn lây nhưng không mang các phương tiện bảo hộ, cần uống thuốc dự phòng bằng Tamiflu 75 mg, 1 viên/ngày trong 5 – 7 ngày.
- Đối với gia cầm nhiễm cúm A H5N1 cần phải tiêu hủy hoàn toàn, để tránh lây lan rộng và đặc biệt phòng tránh lây sang người.
- Người dân tuyệt đối không được vận chuyển, giết mổ, chế biến thức ăn từ gia cầm nghi ngờ hoặc đã được khẳng định bị nhiễm cúm A H5N1.
Cúm - Cảm cúm