Tóm tắt nội dung
Giãn phế quản là tình trạng giãn không hồi phục một phần của cây phế quản, có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường, hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn bình thường. Giãn phế quản được chia thành giãn phế quản hình túi, giãn phế quản hình trụ và giãn phế quản hình tràng hạt dựa trên giải phẫu bệnh lý.
Giãn phế quản là một trong những bệnh lý về phổi thường gặp ở người cao tuổi. Bệnh tiến triển nhanh kéo dài, có những đợt cấp (ho, khạc đờm mủ, khó thở). Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, người bệnh có thể có những biến chứng như viêm phổi tái phát, ho ra máu nặng, khó thở, suy hô hấp xuất hiện thường xuyên.
Giãn phế quản chiếm 6% các bệnh lý phổi, nam bị nhiều hơn nữ. Bệnh có xu hướng gia tăng do liên quan đến nhiễm khuẩn phế quản trong bối cảnh ô nhiễm môi trường không khí, biến đổi khí hậu ngày một nặng nề.
Do giãn phế quản không thể hồi phục được, chỉ có thể điều trị giảm triệu chứng và ngăn chặn sự tiến triển của các triệu chứng. Điều trị có thể giúp bệnh giãn phế quản không trở nên nặng hơn, và giúp ngăn chặn vòng luẩn quẩn của việc nhiễm trùng lặp đi lặp lại. Trong một số trường hợp hiếm hoi, giãn phế quản ở một vùng phổi, phẫu thuật cắt bỏ vùng phổi đó có thể điều trị khỏi tình trạng giãn phế quản.
1. Nguyên nhân gây giãn phế quản
Có nhiều nguyên nhân gây giãn phế quản, bao gồm:
Do tắc phế quản với các nguyên nhân như:
- Tắc phế quản do dị vật: Dị vật vào phế quản làm tắc phế quản, dẫn đến phế quản dưới chỗ tắc bị giãn do quá trình viêm nhiễm gây hủy hoại thành phế quản. Thường xuất hiện từ 6-8 tuần sau khi có dị vật.
- Tắc phế quản do u trong lòng phế quản: Tiến triển nhanh hay chậm tùy theo tiến triển của khối u và mức độ bội nhiễm.
- Tắc phế quản do sẹo cũ của các chấn thương, nhiễm khuẩn ở phế quản
Do nhiễm khuẩn, hoại tử thành phế quản: Sau khi nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi do vi khuẩn, nhiễm cúm, sởi, ho gà…
Giãn phế quản do dị tật bẩm sinh ở cấu trúc phế quản
Giãn phế quản không rõ nguyên nhân: Có đến 40% trường hợp không xác định được nguyên nhân gây giãn phế quản, trường hợp này còn gọi là giãn phế quản nguyên phát.
2. Triệu chứng của bệnh giãn phế quản
Giãn phế quản thường bắt đầu từ những tổn thương phế quản khi còn nhỏ, nhưng chỉ đến khi tình trạng nhiễm trùng phổi tái đi tái lại nhiều lần mới xuất hiện các triệu chứng bệnh rõ rệt. Các triệu chứng này sẽ phát triển nhanh và nặng dần theo thời gian, thậm chí trở thành mạn tính.
Các triệu chứng của giãn phế quản bao gồm:
- Triệu chứng thông thường nhất của giãn phế quản là ho, ho khạc đờm kéo dài trong nhiều năm
- Đờm mủ có màu xanh hoặc màu vàng, một số trường hợp đờm có lẫn máu
- Khạc đờm thường tăng lên khi có bội nhiễm
- Có một số trường hợp ho khan hoặc không ho (giãn phế quản thể khô ở các thùy trên)
- Trong khi một số trường hợp có dấu hiệu của viêm đa xoang, làm hướng tới hội chứng xoang phế quản.
Bên cạnh đó, có một số triệu chứng nặng như:
- Ho ra máu: Ho ra máu có thể là triệu chứng duy nhất hoặc kèm với ho có đờm, ho ra máu tái phát nhiều lần, có thể kéo dài nhiều năm, mức độ ho ra máu có thể ít hoặc nhiều từ ho máu nhẹ, trung bình, ho máu nặng, ho máu rất nặng gây suy hô hấp cấp.
- Khó thở, có tiếng thở rít: Thường xuất hiện muộn, là biểu hiện của suy hô hấp do tổn thương lan tỏa hai phổi, có thể có tím.
- Sốt: Khi xuất hiện tình trạng viêm nhiễm đường hô hấp dưới, sốt thường kèm theo khạc đờm tăng hoặc thay đổi màu sắc của đờm
- Đau ngực hay tức ngực: Là dấu hiệu của nhiễm khuẩn phổi ở vùng gần màng phổi hoặc túi phế quản giãn căng.
3. Các biến chứng nguy hiểm của giãn phế quản
Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng cách có thể chữa khỏi hoàn toàn. Trường hợp phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, hoặc phát hiện bệnh nhưng chủ quan không điều trị đúng cách có thể khiến ổ giãn phế quản lan rộng, dẫn đến bội nhiễm tái phát, người bệnh có thể gặp nhiều biến chứng nguy hiểm.
- Khi ổ giãn phế quản lan rộng và kéo dài, bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như áp xe phổi, mủ màng phổi, xơ phổi, khí phế thũng, mủ phế quản, nhiễm mủ phổi gây khó thở, suy hô hấp trầm trọng, thậm chí ảnh hưởng chức năng tim, gây suy tim.
- Suy hô hấp: Tình trạng này xảy ra khi phổi không cung cấp đủ oxy cho cơ thể ngay cả khi nghỉ ngơi.
- Suy tim phải: Khó thở thường xuyên, ngày một nặng dần.
- Viêm phổi tái phát.
- Ho ra máu nặng, thậm chí đe dọa tính mạng do các cục máu lấp đầy đường thở.
4. Chẩn đoán bệnh giãn phế quản
Chẩn đoán giãn phế quản dựa vào các triệu chứng lâm sàng và phải kết hợp với các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh.
- Các triệu chứng lâm sàng gợi ý: Ho và khạc đờm kéo dài, hoặc ho ra máu tái phát, có thể có móng tay khum… bệnh diễn biến nhiều năm, ngày càng tăng dần
- Chụp X quang phổi: Có thể phát hiện được hình ảnh giãn phế quản, nhưng thường chỉ phát hiện được khi có dấu hiệu nhiễm khuẩn ở phổi
- Chụp CT ngực độ phân giải cao: Cho phép phát hiện hình ảnh giãn phế quản khá rõ ở giai đoạn sớm
- Soi phế quản: Rất có giá trị, vừa giúp chẩn đoán xác định vừa giúp tìm nguyên nhân. Nội soi có thể phát hiện dị vật, các phế quản bị gấp khúc, bị chít hẹp, xác định vị trí chảy máu và hút dịch phế quản tìm vi khuẩn.
- Các xét nghiệm đờm: Giúp chẩn đoán viêm và tìm nguyên nhân gây viêm. Có thể xét nghiệm tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, từ đó giúp lựa chọn kháng sinh điều trị phù hợp.
- Điện tâm đồ, siêu âm tim để phát hiện sớm biến chứng ở tim.
- Đo chức năng hô hấp: Đánh giá chức năng và hoạt động của phổi, xác định mức độ tổn thương ở phổi.
5. Phác đồ điều trị bệnh giãn phế quản
Giãn phế quản là tổn thương không thể hồi phục được, việc điều trị chỉ giúp giảm triệu chứng và giảm sự tiến triển của bệnh, ngăn chặn vòng luẩn quẩn của việc nhiễm trùng lặp đi lặp lại, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Các biện pháp điều trị:
Dẫn lưu đờm mủ phế quản: Hướng dẫn người bệnh cách ho khạc đờm và vỗ rung lồng ngực kết hợp với dẫn lưu theo tư thế.
Điều trị bằng kháng sinh: Thuốc kháng sinh được sử dụng trong đợt cấp tính của giãn phế quản có bội nhiễm. Tốt nhất là sử dụng kháng sinh theo kháng sinh đồ, nếu không có kháng sinh đồ thì dùng kháng sinh phổ rộng.
Điều trị triệu chứng:
- Dùng thuốc giãn phế quản khi nghe phổi có ral rít, ral ngáy
- Thở oxy trong đợt cấp khi có giảm độ bão hòa oxy trong máu hoặc có khó thở, tím tái
Điều trị trường hợp ho ra máu: Tùy theo mức độ ho máu nhẹ, trung bình, nặng hoặc rất nặng mà bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị khác nhau.
Điều trị ngoại khoa: Cắt thùy phổi hoặc một bên phổi trong trường hợp ho ra máu nặng hoặc dai dẳng, tắc do khối u…
6. Dự phòng giãn phế quản
Một số bệnh truyền nhiễm có thể lây từ người này sang người khác qua đường hô hấp. Việc phòng ngừa các tác nhân gây bệnh giúp đẩy lùi nguy cơ giãn phế quản, đồng thời tiết kiệm được chi phí do việc điều trị khá phức tạp và tốn kém.
Một số biện pháp phòng ngừa bệnh hiệu quả như:
- Tiêm vaccine phòng cúm, phế cầu hàng năm, viêm phổi do HI…
- Không hút thuốc lá, thuốc lào, bỏ hút thuốc (nếu có), tránh tiếp xúc với khói thuốc, tránh môi trường có nhiều khói bụi…
- Vệ sinh răng miệng, tai mũi họng sạch sẽ
- Điều trị sớm nếu mắc các bệnh lý nhiễm khuẩn vùng tai mũi họng, răng miệng và các bệnh đường hô hấp như viêm phế quản cấp, áp xe phổi, lao phổi…
- Phòng tránh các nguy cơ dị vật đường thở, nếu không may bị dị vật đường thở thì phải khám và lấy dị vật sớm.
- Tập luyện thể dục thể thao, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, giữ ấm cổ ngực… nhằm đề phòng các đợt bội nhiễm đối với những người bệnh có tiền sử mắc bệnh.
- Điều trị sớm lao sơ nhiễm hay các bệnh viêm phế quản, viêm phổi ở trẻ em.
Giãn phế quản